Thiết kế Goalkeeper CIWS

Hệ thống radar

Goalkeeper được trang bị hai hệ thống radar: một hệ thống để phát hiện các mối đe dọa và một hệ thống khác để theo dõi cũng như tấn công vào mục tiêu. Cả hai hệ thống radar hoạt động đồng thời với nhau để xác định thứ tự ưu tiên cho các mục tiêu, sau đó lựa chọn mục tiêu có mức độ ưu tiên cao nhất để tấn công vào nó.

Radar cảnh giới 2D vận hành dựa trên băng tần I, có thể phát hiện 18 mục tiêu cùng lúc ở khoảng cách lên đến 30 km, đồng thời tạo ra hình ảnh toàn cảnh các mối đe dọa mà hệ thống sử dụng để xác định thứ tự ưu tiên cho các mối đe dọa đó. Hệ thống nhận dạng bạn thù (IFF) của loại radar này có chức năng nhận dạng và loại trừ các mục tiêu thân thiện.[5] Radar bắt bám mục tiêu vận hành dựa trên băng tần Ibăng tần K, cho phép chỉ thị nhanh chóng đối với mối đe dọa đã được ưu tiên. Dữ liệu từ tín hiệu trả về của cả băng tần I và băng tần K cho biết phạm vi của mục tiêu, có thể được sử dụng để xác định và phản hồi việc sử dụng các biện pháp đối phó điện tử (ECM). Hệ thống băng tần kép cũng làm giảm hiệu ứng nhiễu tạp của Clutter, có thể che lấp các mục tiêu ở độ cao thấp. Ngoài ra còn có hệ thống camera đồng trục giúp người vận hành hệ thống có thể quan sát toàn cảnh mối đe dọa.

Hệ thống tấn công mục tiêu

Một mục tiêu trúng đích của Goalkeeper CIWS. Mục tiêu này đã bị bắn trúng sáu lần trong một giây khi tốc độ bắn của hệ thống là 70 phát/giây

Pháo nòng xoay 7 nòng 30 mm GAU-8/A Avenger, loại pháo được trang bị trên máy bay cường kích A-10 Thunderbolt II, đã được lựa chọn làm vũ khí tấn công của hệ thống. Đạn 30x173 mm có khối lượng lớn hơn đạn 20x102 mm được sử dụng bởi pháo nòng xoay M61 Vulcan của hệ thống Phalanx CIWS, vì vậy nó cung cấp sức mạnh hủy diệt lớn hơn nhiều với sơ tốc đầu nòng tương tự nhưng tầm bắn bị giảm đi đáng kể.

Đạn MPDS 30x173 mm có vỏ bọc nylon hình ống tự tách với đầu đạn xuyên tungsten cỡ nhỏ 21 mm. Các vỏ bọc nylon cung cấp một vòng đệm giữa đầu đạn xuyên thấu, vỏ đạn và vật liệu giảm mài mòn. Radar bắt bám mục tiêu có khả năng giám sát các đường bắn và chỉ huy điều chỉnh nó.

Tên lửa siêu thanh bị hư hại vẫn có thể có đủ động lượng để lao vào tàu. Cách duy nhất để đảm bảo an toàn cho tàu là kích nổ đầu đạn của tên lửa hoặc tiêu hủy toàn bộ tên lửa. Thời gian phản ứng của hệ thống Goalkeeper đối với một tên lửa chống hạm lướt biển P-270 Moskit (tên ký hiệu của NATO là SS-N-22 Sunburn, trang bị trên tàu chiến Nga và có tốc độ bay Mach 2) từ khi phát hiện tự động cho đến khi tấn công mục tiêu được báo cáo là 5,5 giây với việc khai hỏa được đồng bộ hóa để hệ thống bắt đầu giao tranh ở khoảng cách 1.500 m và kết thúc việc tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách 300 m.[5]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Goalkeeper CIWS http://kitsune.addr.com/LCF/goalkeeper.html http://www.navweaps.com/Weapons/WNIT_4cm-70_Breda.... http://www.navweaps.com/Weapons/WNNeth_30mm_Goalke... http://sine.ni.com/cs/app/doc/p/id/cs-11308 http://www.thalesgroup.com/Press_Releases/Countrie... http://www.marineschepen.nl/nieuws/Tromp_ontwapent... http://www.indian-military.org/navy/ordnance/close... http://pvo.guns.ru/naval/roy.html https://www.navyrecognition.com/index.php/news/def... https://www.youtube.com/watch?v=mDkiPw2j3uw